-Chân Lý Islam | baiviet | CHUYỆN KỂ - ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI | MECCA VÀ GIA ĐÌNH CỦA THIÊN SỨ IBRAHIM (A) – ISMAEL (A)
Bismillah-ir Rohman-ir Rohim / Assalamu Alaikum Warohma tulloh wabarakatu
GIỚI THIỆU TÔN GIÁO ISLAM - CHÂN LÝ CỦA NHÂN LOẠI
MECCA VÀ GIA ĐÌNH CỦA THIÊN SỨ IBRAHIM (A) – ISMAEL (A)
12.03.2010 23:47 - đã xem : 3099
_VIEWIMG
Thung lũng Mecca được bao quanh những dãy núi
Vương quốc Arabie Saudi (tiếng Ả Rập: المملكة العربية السعودية), còn gọi là Ả Rập Xê Út, là quốc gia lớn nhất trên bán đảo Ả Rập. Quốc gia này có biên giới với Jordanie về phía bắc, với Iraq về phía bắc và tây bắc, với Kuwait, Qatar, Bahrain và Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất về phía đông, với Oman về phía nam và đông nam, với Yemen về phía nam, còn Vịnh Ba Tư nằm về phía đông bắc và Biển Đỏ nằm về phía tây.

VỊ TRÍ ĐỊA LÝ CỦA ĐÔ THỊ MECCA


Tập tin:Sa-map.pngĐô thị Mecca là một thung lũng của Vương quốc Arabie Saudi, cách khoảng 80 cây số về phía đông bờ biển Hồng Hải, nơi đây một số dãy núi và một con đường chạy dài song song bờ biển từ bắc xuống nam (từ Palestine đến Yemen), những khách lữ hành hay thương buôn thường xuyên qua bằng con đường này. Các dãy núi hoàn toàn khép kín một đồng bằng bé nhỏ nếu không có ba đường thoát nối liền với con lộ đi đến Yemen, con lộ đi đến Hồng Hải kế bên thành phố cảng Jeddah và con lộ dẩn đến xứ Palestine. Trong đồng bằng bao quanh bởi những dãy núi thì đô thị Mecca nằm gọn trong đó, thật khó mà truy về nguồn gốc của đô thị Mecca này vốn đã có ở hàng ngàn năm về trước trong quá khứ.


Điều chắc chắn là trước khi đô thị Mecca được thành lập, vào thời xa xưa vùng thung lũng (Mecca) này được sử dụng như là một địa điểm nghĩ ngơi cho các đoàn lữ hành thương buôn đã ngày đêm xuyên qua những vùng sa mạc rộng lớn. Hơn nữa, đô thị Mecca có một số giếng nước làm nó trở thành một địa điểm dừng chân lý tưởng cho những đoàn lữ hành thương buôn đi xuống phía nam (Yemen) cũng như ngược về mạn bắc (Palestine). Thiên sứ Ismael (A), con của Thiên sứ Ibrahim (A) là một trong những người đầu tiên đã dùng mãnh đất này để định cư sinh sống dài hạn tại đây, trong khi những lữ khách thương buôn chỉ xem nơi đây là trạm dừng chân chỉ ở lại tạm nghĩ vài ngày hoặc làm nơi trao đổi hàng hóa mà thôi.



Thiên sứ Ibrahim (A).


Lịch sử đô thị Mecca có vẽ khá mù mờ trong thời kỳ trước khi Thiên sứ Ismael (A) tạo lập nơi đây thành nơi sinh sống thường xuyên của Người. Có thể nói, đô thị Mecca đã được con người sử dụng như là một địa điểm để thờ phượng những bụt tượng (đa thần) từ trước khi Thiên sứ Ismael (A) đến định cư. Để hiểu câu chuyện Thiên sứ Ismael (A) vì sao đến cư trú tại Mecca, chúng ta tìm hiểu tóm lược câu chuyện của Thiên sứ Ibrahim (A) như sau : « Thiên sứ Ibrahim (A) nguyên đã được sinh ra và lớn lên tại Iraq, cha của Người hành nghề thợ mộc và chuyên làm những bức tượng thờ để bán. Khi Người lớn dần lên thì quan sát thấy cha dùng những khúc gổ để sáng tác ra các bức tượng thờ, từ đó Người trầm tư suy nghĩ những việc thờ phượng cúng tế của người dân, Người không thể tin được khi người dân tôn thờ một khúc gổ có khắc hình người, tâm hồn của Người bắt đầu xáo trộn do những sự ngờ vực này. Một hôm, Thiên sứ Ibrahim (A) xin cha giải thích lý do người ta có thể tôn thờ những vật do chính con người tạo ra ? Không thỏa mãn với lối giải thích của cha nên Người đi hỏi bạn bè về sự thắc mắc của mình. Sự không tin tưởng của Người bắt đầu lan rộng làm người cha lo lắng cho sự an toàn của con, cũng như công việc làm ăn của mình. Trong khi đó, Thiên sứ Ibrahim (A) thì vẫn giữ lối suy nghĩ của mình mà không chịu lặng im, Người dùng phương pháp lý luận và bằng chứng để thuyết phục người dân về tính mong manh của việc tôn thờ bụt tượng, nhưng chẳng ai thèm nghe cả, ngược lại tính mạng của Người càng bị đe dọa…


Một ngày nọ, nhân lúc thưa vắng người cúng bái trong đền thờ (Kab’ah), Thiên sứ Ibrahim (A) ra tay phá hủy hết những bụt tượng trong đền, chỉ chừa duy nhứt một tượng thờ lớn nhất mà thôi. Thế là mọi người đều nghi là do bàn tay của Ibrahim đập phá, vì họ đã từng nghe chàng trai Ibrahim khinh miệt những bức tượng thờ này, thế là họ bắt Người đưa ra trước công chúng để người dân hỏi tội.


Họ bảo : « Hỡi Ibrahim ! Phải chăng nhà ngươi đã làm điều này đối với các thần linh của bọn ta ? Người đáp : Không, chính bức tượng lớn nhất này của chúng đã làm điều đó, hãy hỏi nó xem nếu nó biết nói. Thế rồi họ quay nhìn nhau (hổ thẹn) rồi nói : Rõ chính quí vị mới thực sự là những kẻ làm điều sai quấy. Rồi vì xấu hổ họ gục đầu (nói thầm) : Chắc chắn ngươi đã biết rõ những bức tượng này làm gì biết nói… » Qur’an 21 : 62-65


Việc Thiên sứ Ibrahim (A) phá hủy các tượng thờ thần linh vì từ lâu Người đã nghiền ngẫm về sự sai lầm của việc tôn thờ bụt tượng và mong mõi sẽ tìm thấy một đối tượng thật sự có giá trị để tôn thờ. Mỗi khi màn đêm bao phủ, Người nhìn thấy các vì sao hiện lên thì tự hỏi : Đây là Thượng đế (Rabb) của ta ? Nhưng không bao lâu thì những vì sao đã tắt lịm, Người bất mãn và tự hỏi : Ta không thích các vật hay lặn. Liền đó, Người nghĩ đến mặt trăng đang chiếu sáng : Đây là Thượng đế của ta?, nhưng rồi trăng tròn lại khuyết và dần dần biến mất làm Người cũng tan biến đi sự hi vọng của mình và Người nghĩ rằng : Nếu Thượng đế của ta không hướng dẫn thì chắc chắn ta sẽ bị lầm lạc. Một hôm khác, Thiên sứ Ibrahim nhìn thấy hào quang chiếu sáng của mặt trời thì nghĩ rằng : Đây là Thượng đế của ta, do bởi vị này lớn nhất. Nhưng rồi sau đó mặt trời cũng lại lặn đi, Người lớn tiếng bảo : Này hỡi dân ta ! Ta tẩy chay những kẻ mà các người đã tôn thờ cùng chung với Thượng đế (Allah). Ta thẳng thắn và thành thật hướng mặt của ta về Đấng đã sáng tạo các tầng trời và trái đất và ta sẽ không là một người thờ đa thần. (Qur’an 6 : 76-79)


Thiên sứ Ibrahim (A) và bà Sarah.


Thiên sứ Ibrahim (A) không thành công vấn đề tranh luận trong việc giải thoát người dân của mình từ bỏ đạo đa thần. Ngược lại, họ còn quăng Người vào lữa để thiêu sống. Nhưng Thượng đế (Allah) đã cứu Người bằng cách cho lữa nguội mát và sau đó bảo Người cùng vợ là bà Sarah lánh nạn sang Palestine. Từ Palestine, Thiên sứ cùng vợ chuyển sang Ai Cập, lúc đó đang dưới quyền cai trị của các Vua Hyksos hoặc Amalekite, những vị vua này có thói tật bắt những đàn bà đẹp có chồng vào cung để làm nàng hầu cho họ. Khi đến nơi Thiên sứ Ibrahim đã nói dối Sarah là em gái của Người và chưa có chồng để nhà Vua không thể bắt Sarah vào cung, nhưng bấy giờ Sarah là người đàn bà rất đẹp nên nhà Vua cho triệu nàng vào cung, sau đó hiểu ra nàng là vợ của Thiên sứ Ibrahim thì nhà Vua hoàn trả lại nàng lại cho Thiên sứ Ibrahim và có vài lời khiển trách về tội nói dối của Người, dù giận thì giận nhưng nhà Vua cũng ban cho Người một số tặng vật trong đó có một nàng hầu (nô lệ) tên là Hagar. Thiên sứ Ibrahim (A) và bà Sarah chung sống nhiều năm nhưng chưa có con nên bà Sarah đề nghị chồng hãy nhận bà Hagar là người vợ kế để sanh con đẻ cái, thế là bà Hagar đã mang thai và sinh cho Người đứa con trai đầu lòng đặt tên là Ismael. Lúc mà Ismael lớn khôn thì bà Sarah đã thụ thai và sinh cho Người đứa con trai khác đặt tên là Ishaq.


Ghi nhận về kinh Qur’an trong việc tế thần.


Một hôm, Nabi Ibrahim (A) nằm mộng thấy Thượng đế ban lệnh cho Người phải hy sinh một đứa con trai cho Thượng đế (Allah). Sáng dậy, Thiên sứ dẩn đứa con ra cánh đồng để thực hiện, khi đến địa điểm thì Ibrahim đã nói với đứa con : ‘Con thương yêu của cha, đêm qua cha đã nằm mộng thấy Thượng đế ra lệnh choc ha phải hy sinh con vậy con nghĩ sao ?’ Người con trả lời : ‘Thưa cha, cha hãy làm tròn theo lệnh cha nhận được từ ý muốn của Thượng đế, con kiên trì chịu đựng được mà’. Thiên sứ Ibrahim (A) dằn nổi đau lòng vì niềm tin đến Thượng đế, dù lúc đó bọn Shayton (Ma-Quỉ) xúi giục Người không nên giết con của mình, nhưng niềm tin của Người đến Thượng đế thật cao độ nên Người không dể sa ngã vào sự ám ảnh của bọn Shayton. Khi Thiên sứ Ibrahim (A) đưa dao kề cổ người con thì lúc mà Thượng đế cho một thú vật vào thay thế chổ người con và phán bảo : « Hỡi Ibrahim ! Ngươi đã thực hiện toàn vẹn lệnh truyền của TA, TA sẽ ban thưởng cho việc làm có đức tin của ngươi, rõ ràng ngươi đã thành công trong việc làm này, cho nên TA chuộc lại nó bằng con thú vật ».


Đứa con nào đã bị tế thần ?


Các sử gia của giai đoạn này không thống nhất với nhau về việc Thiên sứ Ibrahim (A) đã tế sống đứa con trai là Ismael, sự việc này xãy ra trước hay sau khi Ishaq ra đời ? Sự việc đã xãy ra tại Palestine hay tại Hijaz ? Đây là sự tranh cải của họ.


(a) Các sử gia Do Thái thì khẳng định rằng đứa con trai mà Thiên sứ Ibrahim dẩn đi tế thần đó là Ishaq chớ không phải là Ismael. Nếu nói theo họ (Do Thái) là đứa con được đem tế thần là Ishaq thì nơi tế thần sẽ là Palestine, bởi vì lúc đó Ishaq đang sống với mẹ là bà Sarah tại Palestine và chưa bao giờ mẹ con bà rời khỏi nơi này.


(b) Nhưng chiếu theo Islam trên quyển Qisas al-Anbiya thì Cheikh Abd’al Wahhab al Najjar dựa theo thiên kinh Qur’an đã mô tả đây là đứa con trai « duy nhứt » của Nabi Ibrahim mà không nói tên, thì ai ai cũng hiểu rõ rằng đó là đứa con trai Ismael, bởi vì lúc đó Ishaq chưa ra đời, nếu Ishaq đã ra đời rồi thì kinh Qur’an không thể nói là đứa con duy nhứt được ??? Và nơi mà Nabi Ibrahim (A) dẩn đứa con ra tế thần là vùng đất Mina gần Makkah, lúc ấy Ismael độ khoãng 5 – 6 tuổi mà thôi, lúc mà Nabi Ibrahim (A) ghé thăm hai mẹ con bà Hagar lần đầu từ khi Người bỏ vợ và con ở lại đây.  


Quan điểm của các sử gia.


Một vài sử gia đã ghi lại câu chuyện này theo lối bi thương hơn, nhưng mang những nét đẹp tưỡng có thể ngưng lại đôi giây để ghi nhận. Chẳng hạn, khi Thiên sứ Ibrahim (A) đã nằm mộng thấy phải hi sinh đứa con trai và chắc chắn là theo lệnh của Thượng đế, Thiên sứ đã bảo con lấy một dây thừng và một con dao đi bộ phía trước Thiên sứ Ibrahim (A) đến một ngọn đồi kế bên để nhặt củi đốt. Đứa con trai đã răm rấp làm theo lời cha bảo, bọn Shayton (ma quỷ) đã giã dạng con người đến báo với mẹ của Ismael : « Bà có biết Ibrahim đang dẩn con trai của bà đi đâu không ? Bà Hagar trả lời : « Biết, hai cha con đang đi nhặt củi ». Bọn Shayton nói : «Trời ơi, ổng dẩn thằng bé đi giết đó !!! », bà Hagar đáp lại : « Không đâu, Cha của nó thương yêu và cưng chiều nó còn hơn cả tôi nữa đó ». Bọn Shayton lại nói : « Nhưng ổng nói Thượng đế đã truyền lệnh cho ổng phải giết con trai của bà ». Bà Hagar bình tỉnh trả lời rằng : « Nếu Thượng đế đã bảo ông nhà tôi làm như vậy, thì hãy để ổng làm tròn bổn phận của ổng, vì đây là lệnh của Ngài ». Bọn Shayton thấy không thể xúi giục bà Hagar ngăn cản Ibrahim để chống lại lệnh của Thượng đế thì bọn chúng chạy đến người con đang đi với cha ra cánh đồng, và chúng cũng dùng những lời đường ngọt với người con giống như những lời chúng vừa báo cho bà Hagar vậy, nhưng đứa con vẫn đáp lại như lời của người mẹ đã nói với chúng. Một lần nữa, chúng đã bị thất bại nên chúng quay qua Ibrahim nói rằng những điều mà ông thấy trong mộng chẳng qua chỉ là ảo tưởng ma quỹ mà thôi, coi chừng giết oan con trai của mình rồi sẽ phải ân hận suốt đời. Thiên sứ Ibrahim (A) lập tức bát bỏ những luận điệu của chúng và còn xua đuổi chửi mắng chúng, bọn Iblis (ma quĩ) bối rối rồi bỏ đi xem như đã thất bại hoàn toàn về việc cản ngăn gia đình Ibrahim chống lại lệnh truyền của Thượng đế (Allah).


Một số sử gia khác còn ghi nhận việc Thiên sứ Ibrahim tiết lộ giấc mộng với đứa con trai và hỏi đứa con nghĩ sao thì được con trả lời : «Thưa cha, cha hãy làm đúng như cha đã được lệnh truyền ». Một bản văn khác còn ghi đứa con nói : « Thưa cha, nếu cha muốn giết con thì hãy buộc chặt con lại để con khỏi dãy dụa, làm văng máu vào người cha và như vậy sẽ làm giảm chính phần ân phước của con do việc thực hiện toàn vẹn lệnh truyền của Thượng đế. Con biết chết là khó, con không biết sẽ còn tĩnh táo khi cái chết đến hay không, nên xin cha hãy mài dao cho bén để cha kết liễu con nhanh chóng. Hãy cho con nằm úp mặt xuống thay vì nằm ngữa, bởi con e ngại nếu cha nhìn thấy mặt con khi cha cắt cổ con cha sẽ xúc động thương cho con và sẽ không làm tròn được những điều Thượng đế đã truyền cho cha. Và nếu cha thấy thích hợp thì xin cha hãy trao chiếc áo của con cho mẹ con để mẹ con sẽ nhớ đến con và tìm được niềm an ủi sau này ». Thiên sứ Ibrahim (A) trả lời : « Con ơi, con đã giúp cha hết mình để cha hoàn thành lệnh truyền của Thượng đế ». Sau đó, Thiên sứ Ibrahim (A) chuẩn bị ra tay giết con để tế thần, Người trói tay chân đứa con và đặt nằm xuống đất, khi Người sắp sửa ra tay thì bổng nhiên chổ của đứa con trai thay thế bằng một con trừu, thế là Người đã giết con trừu đó. Đây là câu chuyện tế thần mà Thiên sứ Ibrahim (A) đã tuân mệnh để hoàn thành lệnh truyền của Thượng đế (Allah). Cho nên, hàng năm vào ngày mùng 10 tháng Hajj thì những người đi làm Hajj phải tế lễ một con trừu (Qurb’an).


Ibrahim, Ismael và Hagar đi vào thung lũng Mecca.


Đến giai đoạn mà Thiên sứ Ibrahim (A) đã nhận ra hai người vợ của Người không còn có thể sống chung với nhau dưới một mái nhà được nữa, thì Thiên sứ Ibrahim (A) quyết định đưa hai mẹ con bà Hagar di hành về mạn phía Nam và dừng chân tại thung lũng Mecca để hai mẹ con bà Hagar định cư tại đây. Như đã ghi trước đây, thung lũng này là một địa điểm nửa chặng đường cho những khách lữ hành xuôi về phía bắc (Palestine) hoặc ngược lại phía nam (Yemen và Sham), các đoàn thương buôn thường dừng chân nơi đây để nghĩ ngơi và cúng kiến (đa thần) trong những chặng đường dài mệt mõi.


Khi đến thung lũng Mecca, Thiên sứ Ibrahim (A) để bà Hagar cùng đứa con nhỏ ở lại đó, Người để lại một ít lương thực cho hai người và hứa sẽ trở lại thăm hai mẹ con của bà. Bà Hagar nói với Nabi Ibrahim (A) rằng : Nếu đây là lệnh của Allah thì ông hãy thi hành theo lệnh của Ngài. Thiên sứ Ibrahim (A) chỉ nhìn mẹ con bà lần cuối rồi quay trở về với bà Sarah. Về phần mẹ con bà Hagar, một hôm nước và lương thực đã cạn hết, bà Hagar để đứa con xuống đất rồi chạy đi tìm nước uống, bà chạy hết đầu này xóm nọ nhưng chẳng thấy nước và lương thực ở đâu, bà đã hớt hơ hớt hãi chạy đi chạy lại bảy lần từ đồi núi Safar đến đầu núi Marwah mà chẳng thấy gì cả, cuối cùng bà thất vọng nên trở về với con… Về gần đến nơi đứa con thì bà nghe tiếng khóc của con và thấy bàn chân của nó cào đất và có một nguồn nước ngầm từ dưới đất phún lên, bà Hagar vừa chạy vừa nói « Zamzam, zamzam » rồi đến lấy tay hứng nước uống và đồng thời cho con của mình cùng uống, hai người uống nước đó đến khi đã khát mới thôi, sau đó bà lấy đồ bịt lại nguồn nước sợ tràn ra ngoài uổng phí và từ đó nguồn nước này có tên gọi là « Giếng nước Zamzam ». Từ đó, hai mẹ con ở lại sinh sống tại Mecca chờ chồng đến đón, nhờ những khách lữ hành dùng nơi đây làm trạm nghĩ ngơi nên hai mẹ con bà Hagar cũng nhờ đó mà sinh sống qua ngày.


Thời gian không lâu, nguồn nước Zamzam là sức hút của các bộ tộc, họ bắt đầu lần lượt kéo về cấm liều định cư xung quanh giếng nước zamzam, Jurhum là bộ tộc đầu tiên đến định cư tại đây, vì theo nhiều bản tường thuật thì không có bộ tộc nào định cư tại Mecca trước khi có giếng nước Zamzam, vì không có ai có thể sinh sống trong một thung lũng cằn cổi này.


Thời gian trôi qua, cậu bé Ismael cũng đã lớn khôn và thành hôn với một cô gái ở bộ tộc Jurhum và lập nên một ngôi đền để thờ phượng Thượng đế. Một hôm, Thiên sứ Ibrahim (A) tìm đến thăm con thì lúc đó Ismael đã đi vắng chỉ có người vợ ở nhà. Sau khi salam (chào hỏi) Thiên sứ Ibrahim (A) hỏi người vợ của Ismael : « Chồng của cô đâu ? », nàng trả lời rằng : « chồng tôi đã đi săn rồi », Thiên sứ Ibrahim (A) mới hỏi tiếp : « Trong nhà có thức ăn và thức uống gì không ? », thì được nàng trả lời vắn tắt : « Không ». Trước khi quay lưng đi ra, Người còn nhắn lại một câu : « Hãy chuyển lời Salam của ta đến với nó và hãy bảo nó nên thay đổi ngưỡng cửa của ngôi nhà » xong Người bỏ đi. Khi chồng về thì người vợ kể lại đầu đuôi cho chồng nghe, thế là Ismael biết là cha mình đã ghé thăm và không bằng lòng (tính tình) người vợ của mình. Nghe lời cha, Ismael cưới người vợ khác cũng cùng bộ tộc Jurhum (ái nữ của Mudad ibn Amr). Lần thăm viếng thứ hai, Thiên sứ Ibrahim (A) gặp người vợ sau của Ismael cũng hỏi những điều tương tự như lần gặp người vợ trước của Ismael, lần này người vợ thứ hai biết cách cư xử và nói năng lễ phép, nên trước khi ra đi Thiên sứ cũng nhắn nàng nói với chồng một câu : « Cô hãy nhắn với chồng là ta nói ‘Bây giờ thì ngưỡng cửa nhà con đã thẳng rồi’ ». Từ đó, hai vợ chồng chung sống hạnh phúc có tới 12 mặt con và khi những đứa con lớn lên đã nắm giữ quyền hành trong những bộ tộc thời đó.


 



Trích đoạn của quyển « Sự nghiệp Nabi Muhammad (saw) » của tác giả Tiến sỉ Muhammad Husayn Haykal do Dohamide Abu Talib chuyển ngữ

Ý kiến bạn đọc
Ý kiến của bạn :
Tên Người Gởi :
E-Mail :
Nội Dung :

Các bài viết khác
Mọi góp ý xin gởi về - Email: chanlyislam@yahoo.com hoặc banbientap@chanlyislam.net
Online trong ngày 901 Tổng lượt truy cập 2980345