Mọi lời tụng niệm và tán dương đều dâng lên Allah Đấng Chúa Tể của vũ trụ, và cầu xin sự bằng an cho vị Thiên Sứ cuối cùng Muhammad (Saw), wa ammaba'd:
Bắt buộc những người Muslim phải tin tưởng nơi Allah, tin tưởng vào Ngày Phán Xét. Hãy biết rằng ngày đó, tất cả vàng bạc châu báo, tiền tài danh vọng, cũng như cha mẹ, vợ chồng, con cái hoặc anh em đều vô nghĩa. Bởi vì Ngày đó không ai giúp cho ai được, mà chỉ có mỗi việc làm « thiện tốt » (hành đạo) để đổi lấy sự ân thưởng của Allah...
Allah phán rằng: "(TA) thề bởi thời gian, quả thật con người sẽ đi vào thua thiệt, ngoại trừ những ai làm việc thiện rồi khuyên bảo nhau tôn trọng sự thật và khuyên bảo nhau kiên nhẫn." Chương Al-asr.
Allah đã phán rằng vào Ngày Sau tất cả con người đều bị thất bại và thua thiệt ngoại trừ những ai làm việc « thiện tốt ». Nhưng những việc làm « thiện tốt » là gì? thì đây Nabi (Saw) đã dạy chúng ta phương cách để gom góp những việc thiện, những việc tốt đẹp ấy. Nó rất đơn giản có thể thực hiện trong mọi hoàn cảnh, dù đứng hay nằm, dù ngồi hay đi, và mọi nơi như ở Masjid hay trên đường đi cũng như ở nhà đều thực hiện được.
Theo Sunnah thì Rosul Muhammad (Saw) thường đọc những lời tán dương, tụng niệm và cầu xin sau đây vào mỗi sáng, mỗi chiều và trước khi ngủ:
1- Đọc Ayat Al-Kursy (S.2 / 255) một lần vào mỗi sáng, mỗi chiều và trước khi ngủ:
}ٱللهُ لاَ إِلَـٰهَ إِلاَّ هُوَ ٱلْحَيُّ ٱلْقَيُّومُ لاَ تَأْخُذُهُ سِنَةٌ وَلاَ نَوْمٌ لَّهُ مَا فِي ٱلسَّمَاوَاتِ وَمَا فِي ٱلأَرْضِ مَن ذَا ٱلَّذِي يَشْفَعُ عِنْدَهُ إِلاَّ بِإِذْنِهِ يَعْلَمُ مَا بَيْنَ أَيْدِيهِمْ وَمَا خَلْفَهُمْ وَلاَ يُحِيطُونَ بِشَيْءٍ مِّنْ عِلْمِهِ إِلاَّ بِمَا شَآءَ وَسِعَ كُرْسِيُّهُ ٱلسَّمَاوَاتِ وَٱلأَرْضَ وَلاَ يَؤُودُهُ حِفْظُهُمَا وَهُوَ ٱلْعَلِيُّ ٱلْعَظِيمُ{ الآية 255 من سورة البقرة
Ý nghĩa: [Allah, Không có Thượng đế nào xứng đáng được thờ phụng mà chỉ có Ngài duy nhất, Đấng hằng sống, Đấng tự hữu và nuôi dưỡng vạn vật. Ngài không buồn ngủ và cũng không bao giờ ngủ. Mọi vật trong các tầng trời và trái đất đều là (những tạo vật) của Ngài. Ai có thể biện hộ được (cho bản thân hoặc cho người khác) nếu như không được lệnh của Ngài? Ngài biết được những điều xảy ra trước và sau họ. Và họ không thể bao quát được sự hiểu biết của Ngài về bất cứ điều gì ngoại trừ điều nào Ngài muốn cho họ biết. Ngai Vương của Ngài bao trùm cả các tầng trời và trái đất, và việc Cai quản trời đất không khó khăn hay nặng nhọc đối với Ngài bởi vì Ngài là Đấng Tối Cao, Đấng Vĩ Đại]. S: 2/255
Nabi (Saw) nói: "Ai đọc nó (Ayat Al-Kursy) vào mỗi sáng thì y sẽ được bảo vệ tránh khỏi loài Jin (ma) cho đến chiều, còn ai đọc nó vào mỗi chiều thì y sẽ được bảo vệ tránh khỏi loài Jin cho đến sáng." Do Al-Hakim ghi lại.
Từ đường truyền khác Nabi (Saw) nói: "Ai đọc nó (Ayat Al-Kursy) trước khi ngủ thì y nằm trong sự bảo vệ của Allah. Và Shaytan (loài Quỷ) không đến gần y được cho đến sáng." Do Al-Bukhary ghi lại.
2- Đọc mỗi surah (112 – 113 - 114) sau đây ba lần vào mỗi sáng, chiều và trước khi ngủ:
بِسْمِ اللَّهِ ٱلرَّحْمـٰنِ ٱلرَّحِيمِ
} قُلْ هُوَ ٱللهُ أَحَدٌ (1) ٱللهُ ٱلصَّمَدُ (2) لَمْ يَلِدْ وَلَمْ يُولَدْ (3) وَلَمْ يَكُنْ لَّهُ كُفُواً أَحَدٌ(4){ سورة الإخلاص
Ý nghĩa: Surat 112 : [(1) (Hỡi Muhammad) hãy nói (với những người Do Thái, người Thiên Chúa Giáo và những kẻ thờ đa thần): Ngài là Allah, Đấng duy nhất, (2) Allah là Đấng tự hữu, độc lập mà tất cả (vạn vật) phải nhờ vả, (3) Ngài không sinh đẻ ra ai và cũng không do ai sinh ra, (4) và không một ai (vật gì) có thể so sánh với Ngài đặng] Chương Al-Ikhlas
بِسْمِ اللَّهِ ٱلرَّحْمـٰنِ ٱلرَّحِيمِ
}قُلْ أَعُوذُ بِرَبِّ ٱلْفَلَقِ (1) مِن شَرِّ مَا خَلَقَ (2) وَمِنْ شَرِّ غَاسِقٍ إِذَا وَقَبَ (3) وَمِنْ شَرِّ ٱلنَّفَّاثَاتِ فِي ٱلْعُقَدِ (4) وَمِن شَرِّ حَاسِدٍ إِذَا حَسَدَ (5){ سورة الفلق
Ý nghĩa: Surat 113: [(1) Hãy nói (hỡi Muhammad): Tôi cầu xin Rabb (Đấng Chúa Tể) của buổi rạng đông che chở, (2) tránh khỏi sự tác hại của những vật mà Ngài đã tạo, (3) và khỏi sự tác hại của màn đêm khi nó bao phủ, (4) và khỏi sự tác hại của những kẻ thổi (phù phép) vào những chiếc gút thắt, (5) và khỏi sự hãm hại của những kẻ đố kỵ khi họ ganh tị] Chương Al-Falaq.
بِسْمِ اللَّهِ ٱلرَّحْمـٰنِ ٱلرَّحِيمِ
}قُلْ أَعُوذُ بِرَبِّ ٱلنَّاسِ (1) مَلِكِ ٱلنَّاسِ (2) إِلَـٰهِ ٱلنَّاسِ (3) مِن شَرِّ ٱلْوَسْوَاسِ ٱلْخَنَّاسِ (4) ٱلَّذِى يُوَسْوِسُ فِي صُدُوْرِ ٱلنَّاسِ (5) مِنَ ٱلْجِنَّةِ وَٱلنَّاسِ (6) { سورة الناس
Ý nghĩa: Surat 114 : [(1)Hãy nói (hỡi Muhammad): Tôi cầu xin Rabb (Đấng Chúa Tể) của nhân loại, (2) Đức Vua của nhân loại, (3) Đấng Thượng Đế của nhân loại, (4) (che chở) tránh khỏi sự hãm hại của kẻ thù thì thào (lời xúi giục) rồi lẫn mất, (5) kẻ thì thào (những điều tác hại) vào lòng người, (6) thuộc loài Jin (ma) và loài người] Chương Al-Nas.
Rosul (Saw) nói: "Ai đọc ba chương trên ba lần vào mỗi sáng và mỗi chiều thì được Allah bảo vệ tất cả (mọi điều xấu)." Do Al-Tirmizy và Al-Nasay ghi lại.
3- Đọc đu-a sau đây một lần vào mỗi sáng, mỗi chiều và trước khi ngủ:
((اللَّهمَّ عَالِمَ الْغَيْبِ وَالشَّهَادَةِ فَاطِرَ السَّمَاوَاتِ وَالأَرْضِ رَبَّ كُلِّ شَيْءٍ وَمَلِيْكَهُ، أَشْهَدُ أَنْ لاَ إِلَـٰهَ إِلاَّ أَنْتَ، أَعُوذُ بِكَ مِنْ شَرِّ نَفْسِي وَمِنْ شَرِّ الشَّيْطَانِ وّشِرْكِهِ، وَأَنْ أَقْتَرِفَ عَلَى نَفْسِي سُوْءاً, أَوْ أَجُرَّهُ إِلىَ مُسْلِمٍ)) رواه أبو داود والترمذي
(Allahumma a-li-mal ghoi-bi wash sha-ha-dah fa-ti-ras sa-ma-wa-ti wal ard, Rabba kul-li shay in wa ma-li-kah, Ash-ha-du al la i-la-ha il-la anta, a-u-zu bika min shar-ri naf-sy wa min shar-rish shaytan wa shir-kih, wa an aq-ta-ri-fa a-la naf-sy su-an aw a-jur-ra-hu i-la muslim)
Ý nghĩa: (Hỡi Allah! Đấng am tường mọi việc huyền bí và hiện thực, Đấng tạo ra các tầng trời và trái đất, Thượng Đế của tất cả mọi vật và quyền cai quản thuộc về Ngài, bề tôi tuyên thệ rằng không có Thượng Đế nào xứng đáng được thờ phụng mà chỉ có Ngài duy nhất, bề tôi cầu xin Ngài che chở từ những điều xấu của bản thân, của Shaytan và sự tổ hợp của hắn, và cầu xin che chở khi phạm tội và truyền bá (tội lỗi đó) cho người Muslim khác). Do Abu Dawood và Al-Tirmizy ghi lại.
4- Đọc đu-a sau đây một lần vào mỗi sáng, mỗi chiều và trước khi ngủ:
((اللّهُمَّ إِنِّي أَسْأَلُكَ الْعَفْوَ وَالْعَافِيَةَ فِي الدُّنْيَا وَالآخِرَةِ، اللَّهُمَّ إِنِّي أَسْأَلُكَ الْعَفْوَ وَالْعَافِيَةَ فِي دِيْنِي وَدُنْيَايَ, وَأَهْلِي وَمَالِي، اللًّهُمَّ اسْتُرْ عَوْرَاتِي وَآمِنْ رَوْعَاتِي, اللَّهُمَّ احْفَظْنِي مِنْ بَيْنَ يَدَيَّ, وَمِنْ خَلْفِي وَعَنْ يَمِيْنِي وَعَنْ شِمَالِي وَمِنْ فَوْقِي وَأَعُوذُ بِعَظَمَتِكَ أَنْ أُغْتَالَ مِنْ تَحْتِي)) رواه أبو داود وابن ماجة وأحمد
(Allahumma in-ny as-a-lu-kal af-wa wal a-fi-yah fid dun-ya wal a-khi-rah, Allahumma as-a-lu-kal af-wa wal a-fi-yah fi dy-ny wa dun-ya-ya, wa ah-ly wa ma-ly, Allahum-mas-tur aw-ra-ty wa a-min raw-a-ty, Allahum-mah-fath-ny min bai-na ya-day, wa min khol-fy wa an ya-my-ny wa an shi-ma-ly wa min faw-qi wa a-u-zu bi-a-zo-ma-ti-ka an ugh-ta-la min tah-ty)
Ý nghĩa: (Hỡi Allah! bề tôi cầu xin Ngài sự tha thứ và sự lành mạnh ở trần gian và Ngày Sau. Và cầu xin Ngài sự tha thứ và sự lành mạnh trong đạo, trong cuộc sống trần gian, trong gia đình và trong tài sản. Hỡi Allah! cầu xin Ngài che đậy những phần kín của bề tôi và hãy ban cho sự an nhàn. Cầu xin Ngài bảo vệ bề tôi từ phía trước, từ phía sau, từ bên phải, từ bên trái, từ bên trên và bề tôi cầu xin bởi sự Oai Vệ của Ngài che chở khỏi sự nắm kéo bất ngờ từ phía dưới) Do Abu Dawood, Ibn Majah và Imam Ahmad ghi lại.
5- Đọc đu-a sau đây một lần vào mỗi sáng (Farz) và mỗi chiều (Magrib):
((اللَّهُمَّ أَنْتَ رَبِّي لاَ إِلَـٰهَ إِلاَّ أنْتَ، خَلَقْتَنِي وَأَنَا عَبْدُكَ وَأَنَا عَلَى عَهْدِكَ وَوَعْدِكَ مَا اسْتَطَعْتُ, أَعُوْذُ بِكَ مِنْ شَرِّ مَا صَنَعْتُ، أَبُوْءُ لَكَ بِنِعْمَتِكَ عَلَيَّ، وَأَبُوْءُ لَكَ بِذَنْبِي فَاغْفِرْ لِي فَإِنَّهُ لاَ يَغْفَرُ الذُّنُوْبَ إِلاَّ أَنْتَ))
(Allahumma anta Rabby la i-la-ha il-la anta, kho-laq-ta-ny wa ana abduka, wa ana a-la ah-di-ka, wa wa'-di-ka mas-ta-ta'-tu, a-u-zu bi-ka min shar-ri ma so-na'-tu, a-bu-u laka bi-ne'-ma-ti-ka a-lay-ya, wa a-bu-u la-ka bi-zam-by fagh-fir ly, fa-in-na-hu la yagh-fa-ruz zu-nu-ba il-la anta)
Ý nghĩa : (Lạy Rabb của bề tôi! Ngài là Thượng Đế của bề tôi, không có Thượng đế nào xứng đáng được thờ phụng mà chỉ có Ngài duy nhất, Ngài đã tạo ra bề tôi, và bề tôi là nô lệ tôn thờ Ngài. Bề tôi xin hứa rằng chỉ tôn thờ Ngài duy nhất và làm theo mệnh lệnh của Ngài với tất cả mọi khả năng (có thể), bề tôi cầu xin Ngài che chở về những điều xấu xa mà bề tôi đã làm. Xin thừa nhận về những hồng ân mà Ngài đã ban và thừa nhận những tội lội mà bề tôi đã phạm, vì thế cầu xin Ngài hãy tha thứ cho bề tôi. Quả thật, không có ai có khả năng tha thứ tội lỗi mà chỉ có Ngài duy nhất).
Rosul (Saw) nói: "Ai đọc nó bằng sự khẳng định (của con tim) vào mỗi tối, sau đó bị chết trước khi trời sáng thì y được vào thiên đàng, tương tự như thế khi đọc vào mỗi sáng sau đó bị chết trước khi hoàng hôn thì y được vào thiên đàng." Do Al-Bukhary ghi lại.
6- Đọc đu-a sau đây một lần vào mỗi sáng và mỗi chiều:
((اللَّهُمَّ إِنِّي أَعُوْذُ بِكَ مِنَ الْهَمِّ وَالْحَزَنِ، وَأَعُوْذُ بِكَ مِنَ الْعَجْزِ وَالْكَسَلِ، وَأَعُوْذُ بِكَ مِنَ الْجُبْنِ وَالْبُخْلِ، وَأَعُوذُ بِكَ مِنْ غَلَبَةِ الدَّيْنِ وَقَهْرِ الرِّجَالِ))
(Allahumma in-ny a-u-zu bika mi-nal ham-mi wal ha-zan, wa a-u-zu bi-ka mi-nal aj-zi wal ka-sal, wa a-u-zu bika mi-nal jub-ni wal bukh-li, wa a-u-zu bika min gha-la-ba-tid day-ni wa qah-rir ri-jal)
Ý nghĩa: (Hỡi Allah! bề tôi cầu xin Ngài tránh khỏi sự lo âu, buồn bã, bất lực, lười biếng (trong việc thờ phụng Ngài) và cầu xin tránh khỏi sự nhúc nhác, keo kiệt, thiếu nợ và sự cướp giật.)
Rosul (Saw) nói: "Ai cầu xin như thế vào mỗi sáng và mỗi chiều thì Allah sẽ xua tan nỗi lo âu và giúp y trả nợ." Do Al-Bukhary và Abu Dawood ghi lại.
7- Đọc một lần vào mỗi sáng và mỗi chiều:
((يَا حَيٌّ يَا قَيُّوْمٌ بِرَحْمَتِكَ أَسْتَغِيْثُ أَصْلِحْ لِيْ شَأْنِيْ كُلَّهَ وَلاَ تَكِلْنِيْ إِلَى نَفْسِيْ طَرْفَةَ عَيْنٍ))
(Ya hay-yun ya qoai-yum bi-rah-ma-ti-ka as-ta-ghis os-leh ly sha-ny kul-lah wa la ta-kil-ny i-la naf-sy tar-fa-ta ain).
Ý nghĩa: (Ôi Đấng Hằng Sống, ôi Đấng Bất Diệt, với lòng yêu thương của Ngài bề tôi cầu xin phúc lộc, xin Ngài hãy cải thiện mọi vụ việc của bề tôi và đừng gây trở ngại cho bề tôi dù chỉ trong nháy mắt).
8- Đọc đu-a sau đây mười lần vào mỗi sáng và mỗi chiều:
((اللًّهُمَّ صَلِّ وسَلِّمْ عَلَى نَبِيِّنَا مُحَمَّدٍ))
(Allahumma sol-ly wa sal-lim a-la Na-bi-yi-na Muhammad)
Ý nghĩa: (Hỡi Allah! cầu xin hãy ban hồng ân và sự bằng an cho Nabi Muhammad của chúng tôi).
Rosul (Saw) nói: "Ai cầu xin sự bằng an cho Nabi mười lần vào mỗi sáng và mỗi chiều thì y sẽ được Người biện hộ vào Ngày Phán Xét." Do Al-Tabarany ghi lại.
9- Đọc đu-a sau đây ba lần vào mỗi sáng và mỗi chiều:
((اللَّهُمَّ عَافِنِي فِي بَدَنِي, اللَّهُمَّ عَافَنِي فِي سَمْعِي، اللَّهُمَّ عَافِنِي فِي بَصَرِي، لاَ إِلَـٰهَ إِلاَّ أَنْتَ. اللَّهُمَّ إِنِّي أَعُوْذُ بِكَ مِنَ الْكُفْرِ وَالْفَقْرِ، اللَّهُمَّ إِنِّي أَعُوْذُ بِكَ مِنْ عَذَابِ الْقَبْرِ, لاَ إِلَـٰهَ إِلاَّ أَنْتَ)) رواه أبو داود.
(Allahumma a-fi-ny fy ba-da-ny, Allahumma a-fi-ny fy sam-y, Allahumma a-fi-ny fy ba-so-ry, la i-la-ha il-la anta. Allahumma in-ny a-u-zu bi-ka mi-nal kuf-ri wal faq-ri, Allahumma in-ny a-u-zu bi-ka min a-za-bil qab-ri, la i-la-ha il-la anta)
Ý nghĩa: (Lạy Rabb của bề tôi! cầu xin hãy ban sự lành mạnh cho cơ thể của bề tôi, cho sự nghe của bề tôi, cho sự thấy của bề tôi, không có Thượng đế nào xứng đáng được thờ phụng mà chỉ có Ngài duy nhất. Hỡi Allah! bề tôi cầu xin Ngài che chở về sự phản đạo, sự nghèo khổ và sự hành phạt ở ngôi mộ, không có Thượng đế nào xứng đáng được thờ phụng mà chỉ có Ngài Duy Nhứt). Do Abu Dawood ghi lại.
10- Đọc ba lần vào mỗi sáng và mỗi chiều:
((رَضِيْتُ بِاللهِ رَبّاً، وَبِالإِسْلاَمَ دِيْناً, وَبِمُحَمَّدٍ صَلَى اللهُ عَلَيهِ وَسَلَّمَ نَبِيّاً))
(Ra-dy-tu bil-la-hi Rabba, wa bil-is-la-ma dy-na, wa bi-Muhammadin sol-lollahu wa sal-salam Na-bi-ya)
Ý nghĩa: (Tôi đã hài lòng về Allah là Thượng Đế, về Islam là chính đạo và về Muhammad (Saw) là vị Thiên Sứ)
Rosul (Saw) nói: "Ai nói như thế ba lần vào mỗi sáng và chiều thì Allah sẽ hài lòng về y vào Ngày Sau." Do Imam Ahmah ghi lại.
Xem tiếp phần 2