.((بِاسْـمِكَ رَبِّـي وَضَـعْتُ جَنْبِـي، وَبِـكَ أَرْفَعُـهُ، فَإِنْ أَمْسَـكْتَ نَفْسِي فَارْحَـمْهَا، وَإِنْ أَرْسَـلْتَهَا فَاحْـفَظْهَا، بِمَـا تَحْـفَظُ بِـهِ عِبَـادَكَ الصَّـالِحِينَ))
Tạm phiên âm : (Bismika robbiy wa đa’atu chanbiy, wabika ar fa uh, fa in amsak ta naf siy far hamha, wa in ar saltaha fah faz ha, bima tah fazu bihi iba dakash shoa lihin).
Ý nghĩa: {Nhân danh Thượng Đế, bề tôi nằm và cũng nhân danh Ngài là bề tôi ngồi dậy. Thưa Allah! Khi Ngài lấy linh hồn bề tôi, cầu xin hãy xót thương nó. Còn khi Ngài trả hồn về thể xác bề tôi, cầu xin Ngài hãy che chở bảo vệ nó (tránh xa sự cám dỗ của Shayton) giống như Ngài đã che chở bảo vệ những bề tôi đức hạnh của Ngài.} Hadith do Al-Bukhory và Muslim ghi lại.
2.((اللَّهُمَّ إِنَّكَ خَلَقْتَ نَفْسِي، وَأَنْتَ تَوَفَّاهَا، لَكَ مَمَاتُهَا، وَمَحْيَاهَا، إِنْ أَحْيَيْتَهَا فَاحْفَظْهَا، وَإِنْ أَمَتَّهَا فَاغْفِرْ لَهَا، اللَّهُمَّ أَسْأَلُكَ الْعَافِيَةَ))
Tạm phiên âm : (Allohumma innaka kholaq ta naf siy, wa anta tawaf faha laka mamatuh, wa mah yaha in ah yay taha fah fazha, wa in a mattaha fagh fir laha, allohumma as alukal a fi yah)
Ý nghĩa: {Thưa Allah! Quả thực, Ngài là Đấng tạo ra linh hồn của bề tôi và cũng là Đấng làm cho nó chết đi, Ngài là Đấng nắm trong tay cái chết và sự sống của linh hồn. Vì vậy, khi Ngài phục sinh nó, cầu xin hãy che chở bảo vệ nó tránh khỏi mọi điều xấu, còn khi Ngài làm cho làm cho nó chết cầu xin hãy dung thứ cho nó. Bề tôi cầu xin Ngài sự lành mạnh.} Hadith do Muslim và Ahmad ghi lại.
3. ((اللَّهُـمَّ قِنِـي عَذَابَكَ، يَـوْمَ تَبْعَثُ عِبَادَكَ))
Tạm phiên âm : (Allohumma qiniy aja baka, yauma tab atu ibadak)
Ý nghĩa: {Thưa Allah! Cầu xin hãy che chở bảo vệ bề tôi tránh khỏi hình phạt của Ngài vào Ngày Phục Sinh.} Hadith do Abu Dawud và Ahmad ghi lại.
4. ((بِاسْـمِكَ اللَّهُـمَّ أَمُـوْتُ وَأَحْـيَا))
Ý nghĩa: {Nhân danh Ngài thưa Allah. Vì Ngài mà bề tôi chết và cũng vì Ngài mà bề tôi sống.} Hadith do Al-Bukhory và Muslim ghi lại.
5. ((سُبْـحَانَ اللهِ)) (đọc 33 lần, Subha nallah) Ý nghĩa: {Vinh quang thay Allah!}
((وَالْحَمْـدُ لِلَّهِ)) (đọc 33 lần, Walhamdu lillah) Ý nghĩa: {Và mọi lời ca ngợi đều kính dâng Allah!}
((وَاللهُ أَكْبَـرُ)) (đọc 34 lần, Wallohu Akbar) Ý nghĩa: {Và Allah thật Vĩ đại!}
(Hadith do Al-Bukhory và Muslim ghi lại).
6.((اللَّهُمَّ رَبَّ السَّمَاوَاتِ السَّبْعِ، وَرَبَّ الأَرْضِ، وَرَبَّ الْعَرْشِ الْعَظِيمِ، رَبَّنَا وَرَبَّ كُلِّ شَيْءٍ، فَالِقَ الْحَبِّ وَالنَّوَى، وَمُنْزِلَ التَّوْرَاةِ وَالإِنْجِيلِ وَالْفُرْقَانِ، أَعُوذُ بِكَ مِنْ شَرِّ كُلِّ شَيْءٍ، أَنْتَ آخِذٌ بِنَاصِيَتِهِ. اللَّهُمَّ أَنْتَ الأَوَّلُ فَلَيْسَ قَبْلَكَ شَيْءٌ، وَأَنْتَ الآخِرُ فَلَيْسَ بَعْدَكَ شَيْءٌ، وَأَنْتَ الظَّاهِرُ فَلَيْسَ فَوْقَكَ شَيْءٌ، وَأَنْتَ الْبَاطِنُ فَلَيْسَ دُونَكَ شَيْءٌ، اقْضِ عَنَّا الدَّيْنَ، وَأَغْنِنَا مِنَ الْفَقْرِ))
Tạm phiên âm : (Allohumma robbas sama watis sab-i, wa robbal ard, wa robbal ar shil azim. Robbana wa robba kulli shay in faliqol habba wannawa, wa mun zi lat tawroti wal inchili wal fur kon. A uzu bika min sharri kulli shay in anta khi zun bina shi yatih. Allohumma antal awwalu falaysa koblaka shay-un, wa anta la khiru falaysa bac daka shay-un, wa antaz-zoa hiru falaysa fau koqa shay-un, wa antal ba trinu falaysa đunaka shay-un, aq đi annad-đayna wa agh nina minal faqr)
Ý nghĩa: {Thưa Allah! Ngài là Chủ Nhân của bảy tầng trời và trái đất, là Chủ Nhân của Ngai vương vĩ đại, là Chủ Nhân của chúng ta và Chủ Nhân của vạn vật. Ngài là Đấng chẻ hạt giống, hạt chà là ra làm hai rồi làm cho chúng nẩy mầm, là Đấng ban xuống Kinh Cựu Ước, Kinh Tân Ước và Thiên Kinh Qur’an, cầu xin Ngài che chở tránh xa mọi điều xấu, bởi vì Ngài là Đấng có mọi uy quyền trong tay. Thưa Allah! Ngài là Đấng Đầu Tiên mà không có gì trước Ngài cả, Ngài là Đấng Cuối Cùng mà không có gì sau Ngài, Ngài là Đấng có uy quyền tối cao mà không gì hơn Ngài, Ngài là Đấng Am Tường mọi việc đã bị giấu giếm mà không ai có thể biết được, hãy giúp đỡ chúng tôi thực hiện được mọi nhiệm vụ đối với Ngài, đối với mọi người và cầu xin Ngài ban cho chúng tôi giàu có thoát khỏi cảnh bần cùng.} Hadith do Muslim ghi lại.
7. ((الْحَمْـدُ لِلَّهِ الَّذِي أَطْعَمَنَـا وَسَقَانَـا، وَكَفَانَـا وَآوَانَـا، فَكَـمْ مِمَّـنْ لاَ كَافِـيَ لَهُ وَلاَ مُؤْوِيَ))
Tam phiên âm : (Alhamdu lillahil laziy atr amana wasa kona, wa kafana, wawana fa qăm mim man la kafiy lahu wala múc wiy)
Ý nghĩa: {Tạ ơn Allah đã ban cho chúng tôi thức ăn, nước uống, sự giàu có, sự giúp đỡ và nhà cửa, trong khi có biết bao người không được giúp đỡ và cũng không có nơi ăn chốn ở.} Hadith do Muslim ghi lại.
8.((اللَّهـمَّ عَـالِمَ الْغَيْبِ وَالشَّـهَادَةِ، فَاطِرَ السَّـمَاوَاتِ وَالأَرْضِ، رَبَّ كُلِّ شَـيْءٍ وَمَلِيْكَهُ، أَشْـهَدُ أَنْ لاَ إِلَـٰهَ إِلاَّ أَنْتَ، أَعُـوذُ بِكَ مِـنْ شَـرِّ نَفْسِـي، وَمِـنْ شَـرِّ الشَّيْطَانِ وّشِرْكِهِ، وَأَنْ أَقْتَرِفَ عَلَـى نَفْسِـي سُوْءاً، أَوْ أَجُرَّهُ إِلىَ مُسْلِمٍ))
Tạm phiên âm : (Allohumma alimal ghoay bi wash-shahadati fa tri rossama wati wal ard, robba kulli shay in wamaliy kah, Ash hadu anla ila ha illa anta, a uzu bika min shar-ri naf si, wa min shar-rish shay troniw wa shir kih, wa an aq tari fa ala naf siy su an au a chur-rohu ila muslim)
Ý nghĩa: {Thưa Allah! Đấng am tường mọi việc huyền bí và hiện thực, Đấng tạo dựng các tầng trời và trái đất, Thượng Đế của tất cả vạn vật và quyền cai quản thuộc về Ngài, bề tôi tuyên thệ không có Thượng Đế nào xứng đáng được thờ phụng mà chỉ có Ngài, bề tôi cầu xin Ngài che chở tránh mọi điều xấu của bản thân, của Shayton và sự tổ hợp của hắn, và cầu xin hãy bao dung khi bề tôi phạm tội và truyền bá (tội lỗi đó) cho người Muslim khác.} Hadith do Abu Dawud và Al-Tirmizy ghi lại.
9. Đọc chương Al-Sajdah và chương Al-Mulk.
10. ((اللَّهُـمَّ أَسْلَـمْتُ نَفْسِـي إِلَيْكَ، وَفَوَّضْتُ أَمْرِي إِلَيْكَ، وَوَجَّهْتُ وَجْهِـي إِلَيْكَ، وَأَلْجَأْتُ ظَهْرِي إِلَيْكَ، رَغْبَةً وَرَهْبَةً إِلَيْكَ، لاَ مَلْجَأَ وَلاَ مَنْجَا مِنْكَ إِلاَّ إِلَيْكَ، آمَنْتُ بِكِتَابِكَ الَّذِي أَنْزَلْتَ، وَبِنَبِيِّكَ الَّذِي أَرْسَـلْتَ))
Tạm phiên âm : (Allohumma aslamtu nafsiy ilayka, wa fau-wadtu ămriy ilayka, wa wach-chahtu wach hiy ilayka, wa al cha’atu troh riy ilayka, rogh ba tâu wa rohba tan ilayka, la mal cha a wala manka illa ilayka, amantu bikita bi kalla ziy an zalta, wabi na bi yi kalla ziy ar salta)
Ý nghĩa: {Thưa Allah! Bề tôi phủ phục bản thân vì Ngài, phó thác mọi việc làm cho Ngài, hướng mặt của bề tôi đến Ngài, bề tôi nương tựa nơi Ngài, bề tôi hy vọng và kính sợ Ngài. Không có nơi tựa nào (cho mọi người ngoại trừ) nương tựa vào Ngài và cũng không có sự cứu tế ngoại trừ ở nơi Ngài. Bề tôi tin tưởng rồi vào Thiên Kinh (Qur’an) mà Ngài đã mặc khải (cho Nabi Muhammad) và tin tưởng rồi vị Nabi của Ngài đã phái đến.} Hadith do Al-Bukhory và Muslim ghi lại.
Lời cầu nguyện khi màn đêm đến.
((لاَ إِلَـٰهَ إِلاَّ اللهُ الْوَاحِدُ الْقَـهَّارُ، رَبُّ السَّـمَاوَاتِ وَالأَرْضِ، وَمَـا بَيْنَهُمَـا الْعَـزِيزُ الْغَـفَّارُ))
Tạm phiên âm : (La ila ha il lollohul wahi đul qohhar rabussama wati wal ard, wama bâyna humal a ziy zul ghoffar)
Ý nghĩa: {Không có Thượng Đế nào xứng đáng được thờ phụng mà chỉ có Allah duy nhất đầy Uy quyền, Ngài là Chủ Nhân của các tầng trời, trái đất và vạn vật giửa chúng, Ngài là Đấng Cao Thượng, Đấng Hằng Tha Thứ.} Hadith do Al-Al-Hakim, Al-Nasa-y và Sany ghi lại.
Lời cầu nguyện khi giật mình thức giấc nữa đêm hoặc ai gặp phải sợ hãi khi nằm mơ.
((أَعُـوذُ بِكَلِمَاتِ اللهِ التَّامَّاتِ، مِـنْ غَضَبِهِ وَعِقَابِهِ، وَشَـرِّ عِبَادِهِ، وَمِـنْ هَمَزَاتِ الشَّـيَاطِينِ، وَأَنْ يَحْضُـرُونِ))
Tạm phiên âm : (A uzu bikalima tilla hittammat, min gho đanihi wa iko bih, wa sharri ibadih, wa min hamaza tish-sha ya trin, wa an yah đu run)
Ý nghĩa: {Bề tôi cầu xin những Đại Danh và những Kinh Sách hoàn hảo của Allah che chở tránh khỏi sự giận dữ của Ngài, tránh khỏi hình phạt của Ngài, tránh khỏi mọi điều xấu của bầy tôi của Ngài, tránh khỏi những điều cám dỗ quyến rũ của Shayton và tránh khỏi sự xuất hiện của hắn trong mọi hoàn cảnh của bề tôi.} Hadith do Abu Dawud và Al-Tirmizy ghi lại.
Làm những việc sau khi thấy ác mộng.
a) Phun bên trái ba lần (hình thức đuổi shayton đi).
b) Hãy cầu xin Allah che chở tránh khỏi Shayton và tránh xa những điều đã thấy trong ác mộng. (ba lần)
c) Không kể ác mộng với bất cứ một ai.
d) Và xoay về hướng khác để ngủ, hoặc thức dậy dâng lễ Solah sunnah.
Thiên sứ Muhammad (saw) có nói : “Khi Ngày Tận Thế gần kề những giấc mộng của Muslim hầu như không thực và người thấy mộng thực nhất trong các bạn là người thật thà nhất. Giấc mộng của Muslim là một trong bốn mươi lăm phần của sự mặc khải và giấc mộng được chia làm ba phần: giấc mộng tốt đẹp là Allah ban cho, giấc mộng xấu xa là do Shayton quấy nhiểu và giấc mộng do bản thân suy nghĩ ra. Vì vậy, khi các bạn nằm mộng thấy những điều không thích, thì hãy đứng dâng lễ Solah và đừng bao giờ kể cho bất cứ ai.” Hadith do Muslim và Al-Tirmizy ghi lại.
Do Ibn Isa chuyển ngữ từ sách "Hisnul Al-Muslim"
Sinh viên Islamic University of Madinah