NHỮNG LỜI TỤNG NIỆM TRONG LỄ NGUYỆN (SOLAH) WITIR 20.01.2009 03:56 - đã xem : 3365 Solah witir gồm có số lẻ (một, ba, năm hay bảy… rak’at) tùy theo sự định tâm của mình, nhưng sau khi solah witir rồi thì kể từ giờ phút đó cho đến giờ solah farz (hừng sáng) thì không được quyền solah sunnah thêm bất cứ trên danh nghĩa nào, cho nên solah witir được tạm gọi là solah cuối cùng trong ngày. Cách thức solah witir nếu là ba rak’at cũng giống như cách thức solah Magrib, nhưng có hai cách thức cho salam, một là cho salam ở hai rak’at đầu, rồi sau đó cho salam ở rak’at cuối cùng hoặc cho salam một lần ở rak’at cuối cùng cũng được (giống như solah Margrib). Nhưng sự khác biệt ở đây là vấn đề đu-a trong solah, nghĩa là sau khi solah hai rak’at đầu xong thì đến rak’at thứ ba, sau khi đọc bài Fatihah và một đoạn kinh Qur’an nhỏ thì rukua (khum người xuống 45°) và khi đứng thẳng người lên thì chúng ta không cho sujud (cúi lạy) liền mà hãy giữ trong tư thế đứng thẳng người đưa hai tay để cầu xin (xem hình) và đọc những bài đu-a sau đây (bắt buộc phải đọc bài đu-a Qunut trước). Sau khi đu-a xong thì lập tức cúi xuống sujud rồi thi hành phần còn lại (đọc bài Attahiya) và cho salam thế là xong buổi hành lễ solah witir. Bài đu-a Qunut như sau: ((اللَّهُـمَّ اهْـدِنِي فِيمَـنْ هَدَيْتَ، وَعَـافِنِي فِيـمَنْ عَـافَيْتَ، وَتَوَلَّنِـي فِيمَنْ تَوَلَّيْتَ، وَبَارِكْ لِـي فِيمَـا أَعْطَيْتَ، وَقِنِـي شَرَّ مَـا قَضَيْتَ، فَإِنَّكَ تَقْضِـي وَلاَ يُقْـضَى عَلَيْكَ، إِنَّهُ لاَ يَذِلُّ مَنْ وَالَيْتَ، وَلاَ يَعِزُّ مَـنْ عَـادَيْتَ تَبَارَكْتَ رَبَّنَـا وَتَعَـالَيْتَ)) (Allohummah diniy fiman hadayt – wa a finiy fiman afayt – wata wallaniy fiman ta wanlayt – waba rikli fima ac troayt – wakiniy shar roma kodayt – fa innaka tokdiy wala yuq doa alayk – in nahu la ya zillu man walayt – walaya izzu man adayt, taba rakta robbana wata alayt) Ý nghĩa: {Thưa Allah! Cầu xin Ngài hướng dẫn bề tôi (theo con đường tốt đẹp nhất) như Ngài đã hướng dẫn (các vị Thiên Sứ và những người đức hạnh), cầu xin hãy ban những điều lành mạnh (cho sức khỏe và tinh thần cũng như về sở thích của bề tôi), cầu xin hãy trông nom những hành động của bề tôi như Ngài đã trông nom những người trước (và đừng bao giờ bỏ mặc bề tôi), hãy ban phúc cho bề tôi với những gì Ngài đã ban tặng và hãy bảo vệ bề tôi tránh mọi điều xấu mà Ngài đã định trước. Quả thực, Ngài là Đấng quyết định tất cả mọi việc mà không có thế lực nào ngăn cản. Và không có điều gì có thể hạ thấp được những ai được Ngài tôn trọng và cũng sẽ không được tôn trọng đối với ai bị Ngài đã sỉ nhục. Thưa Thượng Đế của chúng tôi! Ngài là Đấng Tối Cao và ban mọi điều may mắn.} Hadith do Abu Dawud, Al-Tirmizy, Al-Nasa-y và Ibn Majah ghi lại. ((اللَّهُـمَّ إِنِّـي أَعُـوذُ بِرِضَـاكَ مِـنْ سَخَـطِكَ، وَبِمُعَافَاتِكَ مِـنْ عُقُـوبَتِكَ، وَأَعُـوذُ بِكَ مِنْـكَ لاَ أُحْـصِي ثَنَاءً عَلَيْكَ، أَنْتَ كَمَـا أَثْنَيْتَ عَلَـى نَفْسِـكَ)) (Allohumma inniy a uzu biri đoaka min sakho trik – wa bimu afa tika min u qu batik – wa a uzu bika minkala uh shi shana an alayka anta kama ash nayta ala naf sik) Ý nghĩa: {Thưa Allah! Bề tôi cầu xin sự hài lòng, thỏa mãn của Ngài và tránh xa sự giận dữ nơi Ngài, cầu xin Ngài dung thứ tội và cầu xin che chở tránh xa hình phạt, xin Ngài đừng bắt tội về những gì bề tôi không có khả năng thực hiện. Ngài là Đấng xứng đáng với những gì mà Ngài đã tự Ca Ngợi.} Hadith do Abu Dawud, Al-Tirmizy, Al-Nasa-y và Ibn Majah ghi lại. ((اللَّهُمَّ إِيَّاكَ نَعْبُدُ، وَلَكَ نُصَلِّي وَنَسْجُدُ، وَإِلَيْكَ نَسْعَى وَنَحْفِدُ، نَرْجُو رَحْمَتَكَ ونَخْشَى عَذَابَكَ. إِنَّ عَذَابَكَ بِالْكَافِرِينَ مُلْحَقٌ. اللَّهُمَّ إِنَّا نَسْتَعِينُكَ وَنَسْتَغْفِرُكَ، وَنُثْنِي عَلَيْكَ الْخَيْرَ وَلاَ نَكْفُرُكَ، وَنُؤْمِنُ بِكَ وَنَخْضَعُ لَكَ، وَنَخْلَعُ مَنْ يَكْفُرُكَ)) (Allohumma iyyaka na’a budu walaka nu sholliy wa nas chud – wa ilayka nas a wa nah fidu narchu rohmatak, wa nakh sha azabak. In na azabaka bilka firiyna mul haq. Allohumma inna nas ta iy nuka wa nas tagh firuka, wa nush niy alaykal khoay ro, wala nak furuka, wanuc minubika, wa nakh đoa u laka, wa nakh la u man yak furuk) Ý nghĩa: {Thưa Allah! Duy chỉ Ngài chúng tôi thờ phụng, dâng lễ solah và quỳ lạy. Chúng tôi vội tìm đến Ngài mưu cầu (sinh lợi), hi vọng lòng khoan dung nơi Ngài và sợ hãi những hình phạt của Ngài. Quả thực! Hình phạt của Ngài chỉ dành cho những kẻ không tin tưởng nơi Ngài. Thưa Allah! Chúng tôi tìm nơi che chở từ Ngài và cầu xin tha thứ tội lỗi, chúng tôi tán dương, ca tụng Ngài bằng những lời nói tốt đẹp và không bao giờ phản nghịch Ngài, chúng tôi tin tưởng nơi Ngài, phục tùng Ngài và từ bỏ những ai phản nghịch Ngài.} Hadith do Al-Bayhaqy ghi lại trong quyển Sunan Al-Kubro. Sau khi đu-a những bài đu-a trên thì chúng ta có thể đọc thêm những bài đu-a khác mà mình biết ý nghĩa của nó. Dưới đây la lời tụng niệm sau Salam của lễ nguyện Solah Witr. Sau khi salm nên đọc ba lần câu sau đây: ((سُبْـحَانَ الْمَلِكِ الْقُدُّوسِ)) (Subha nal malikil quddu’s). Ở lần thứ ba đọc ra tiếng, kéo dài và tiếp: ((رَبِّ الْمَـلاَئِكَةِ وَالرُّوحِ)) (Robbil mala ikati warru’h) Ý nghĩa: {Ôi vinh quang thay, trong sạch thay Thượng Đế của các vị Thiên Thần và Ruh (Jibril).} Hadith do Muslim ghi lại. Trên đây là sự solah witir dù không bắt buộc nhưng Rosul Muhammad (saw) hầu như không bao giờ bỏ, mong rằng bài này sẽ mang đến nhiều lợi ích cho các anh chị em đồng đạo. Cầu xin Allah chấp nhận sự hành đạo của chúng ta, amin.
Ibn Isa (Sinh viên University Islamic Of Madinah - Arabia Saudi) Ý kiến bạn đọc |