GIÁO LÝ LIÊN QUAN VỀ PHỤ NỮ ISLAM (GIÁO LÝ TỔNG QUÁT) 10.02.2008 04:02 - đã xem : 2747 Để đi đúng đường lối ‘sunnah’ mà Rosul (saw) chỉ dạy, chanlyislam xin đóng góp một tài liệu dịch thuật từ sách của hai vị Shierk Mohammad Soleh Al Uthainy và Shierk Soleh Fawzan Abdulloh Al Fawzan đã viết về đề tài « Liên quan đến người phụ nữ Islam ». Tài liệu này chúng tôi cố gắng dịch thuật cho dễ hiểu và chia ra làm nhiều phần, mong đây là một cơ hội để chúng ta tìm hiểu rõ ràng về « Thân trạng của người phụ nữ trong Islam ». Phần thứ nhất أحكام عام Giáo lý tổng quát 1- مكانة المرأة قبل الإسلام: 1)- Ðịa vị của phụ nữ trước Islam Trước Islam ở đây có nghĩa là thời tiền cổ trước khi Islam xuất hiện trên bán đảo Arab nói riêng, và trên thế giới nói chung. Thời kỳ giao điểm mà những sứ giả của Allah còn thiếu vắng trên trái đất này như những hadith đã đề cập, và thời kỳ mà hầu như con người không quan tâm đến tôn giáo, chỉ có một phần nhỏ nào đó tin theo đạo Do Thái và Thiên Chúa giáo. Cũng vào thời kỳ này, hầu hết những người phụ nữ đều mù chữ và bị xã hội ruồng bỏ hoặc khinh khi, nhất là đối với dân tộc Arab. Họ rất sợ vấn đề sinh đẻ, nếu họ sinh ra con gái, thì họ phải đem chôn sống đứa con gái đó, hoặc họ bỏ rơi mặc chúng chết sống ra sao!!! Vì thế, khi Islam ra đời thì Allah có phán trong thiên kinh Qur’an với ý nghĩa như sau: قال تعالى: (وإذا بشر أحدهم بالأنثى ظل وجهه مسودا وهو كظيم * يتوارى من القوم سوء ما بشر به ايمسكه على هزن ام يدسه في التراب الأ ساء ما يحكمون).سورة النحل: 58-59. « Và khi một người trong bọn nhận được tin tức về một đứa bé gái (vừa mới chào đời), gương mặt của y sa sầm và nỗi lòng buồn rầu vô hạn. _ Y nhục nhã lẩn trốn thiên hạ vì hung tín vừa mới nhận. Y phải giữ nó (đứa bé gái) lại trong tủi nhục hay phải chôn sống nó dưới đất? Ôi xót xa thay điều mà y quyết định ! » S. 16 : 58-59. قال تعالى: (وإذا الموءدة سئلت * بإي ذنب قتلت). سورة التكوتر 8-9. « Và khi các đứa bé gái bị chôn sống sẽ được tra hỏi _ Vì tội gì mà bé đã bị giết ? » S. 81 : 8-9. Theo sự tường thuật thì đứa bé gái bị chôn sống đó nếu may mắn chưa chết (Allah chưa cho chết), thì cha mẹ của đứa bé gái đó vẫn xem là người ngoài của gia đình, đứa bé gái đó không được hưởng gia tài như bao người khác và sống chết thế nào thì trong gia đình không ai màng tới. Người Arab thời đó chỉ chia gia tài cho đàn ông, còn đàn bà thì không có phần. Hơn nữa, nếu người vợ có chết trước mà có gia tài thì người đàn ông (chồng) toàn quyền sử dụng gia tài của người vợ. Hơn nữa, nếu một người đàn ông khá giả hay có quyền cao chức trọng, họ có quyền cưới hay « vụng trộm » với bao nhiêu người đàn bà tùy theo họ muốn mà không có giới hạn. Cho nên, thời đó người đàn bà không có một chút quyền lợi hay quyền hạn gì cả, dù chồng có đối xử tệ bạc hay bất công, họ cũng không có quyền than vãn hay nói lên điều gì. 2) ـ مكان المرأة في الإسلام.. 2)- Ðịa vị của phụ nữ trong Islam Khi Islam xuất hiện thì Rasul (saw) đã diễn giải để đem lại sự công bằng và nêu cao danh dự cho người đàn bà, từ đó người đàn bà không còn bị khinh thường, được mọi người tôn trọng và có những quyền lợi như nhau, qua lời phán của Allah: قال تعالى: (يأيها الناس إنا خلقناكم من ذكر وأنثى) سورة الحجرات: 13.« Hỡi nhân loại, Ta đã tạo hóa các ngươi từ một người nam và một người nữ… » S. 49 : 13. Qua ý nghĩa của ayat trên Allah đã giải thích cho chúng ta biết, người đàn bà là người bạn đồng hành với nam giới trong việc cấu tạo ra con người. Họ cũng là bạn đồng hành của người đàn ông trong lĩnh vực thực hành giáo lý, phước đức và giá trị như nhau trong việc thực thi đạo giáo, qua lời phán của Allah: قال تعالى: (من عمل صالحا من ذكر أو أنثى وهو مؤمن فلنحيينه حيوات طيبة ولنجزينهم بأحسن ما كانوا يعملون) سورة النحل: 97. « Ai làm việc thiện, bất luận nam hay nữ, và là một người có đức tin thì chắc chắn TA sẽ cho y sống một đời sống lành mạnh tốt đẹp; và chắc chắn TA sẽ ban cho họ phần thưởng của họ tùy theo điều tốt nhất mà họ đã làm. » S. 16 : 97. Và Allah cũng có phán: قال تعالى: (ليعذب الله المنافقين والمنافقات والمشركين والمشركات..) سورة الأحزاب 73. « (Làm thế) để Allah trừng phạt những tên đạo đức giả, nam và nữ; và (trừng phạt) những kẻ thờ đa thần nam và nữ; và để Ngài lượng thứ cho những người có đức tin, nam và nữ. Và Allah Hằng Tha Thứ, Rất Mực Khoan dung. » S. 33 : 73. Allah cũng đã cảnh cáo người đàn ông về việc chiếm đoạt tài sản hay gia tài của người đàn bà, qua lời phán của Allah: قال تعالى: (يأيها الذين ءامنوا لايحل لكم أن ترثوا النساء كرها).سورة النساء:19. « Hỡi những ai có niềm tin! Các ngươi không được phép cưỡng bức vợ để thừa hưởng gia tài của họ, cũng không được giam (hành hạ) họ để lấy lại một phần nào tiền cưới (Mahar) mà các người đã tặng họ ngoại trừ trường hợp họ công khai phạm tội thông gian... » S. 4 : 19. Islam đã bảo toàn cho người đàn bà được quyền thừa hưởng những thừa kế, di sản của chồng hay thân nhân để lại, qua lời phán của Allah: قال تعالى: (للرجال نصيب مما ترك الوالدان والأقربون وللنساء نصيب مما ترك الوالدان والأقربون مما قل منه أو كثر نصيبا مفروضا). سورة النساء 7. « Người đàn ông được hưởng một phần của gia tài do cha mẹ và bà con gần để lại, và người đàn bà được hưởng một phần của gia tài do cha mẹ và bà con gần để lại, dù gia tài đó ít hay nhiều, chia phần đều có tính nhất định. » S. 4 : 7. قال تعالى: (يوصكم الله فى أولادكم للذكر مثل حظ الأنثيين فإن كن نساء فوق اثنتين فلهن ما ترك وإن كانت واحدة فلها النصف.)..سورة النساء 11. « Allah ra lệnh cho các người về việc con cái của các người hưởng gia tài (như sau): phần của con trai bằng hai phần của con gái. Nhưng nếu chỉ có con gái và số con gái nhiều hơn hai, thì phần của tất cả các con gái là 2/3 của gia tài để lại; và nếu chỉ có một đứa con gái thì phần của nữ là phân nửa (1/2) gia tài để lại... » S. 4 : 11. Về việc đa thê, Islam chỉ cho phép người đàn ông được kết hôn tối đa là bốn vợ, nhưng với điều kiện là phải đối xử công bằng trong tất cả những người vợ, từ đời sống vật chất đến tinh thần và tình thương yêu, qua lời phán của Allah: قال تعالى: (وعاشروهن بالمعروف) سورة النساء 19. « …hãy sống chung với họ một cách tử tế bởi vì nếu các người ghét họ thì có lẽ các người ghét một (sinh) vật mà Allah đã ban nhiều cái tốt lành. » S. 4 : 19. Khi làm lễ cưới, người đàn ông bắt buộc phải trả tiền cưới gọi là « Mahar », ngoại trừ người vợ không đòi hỏi tức khắc hay miễn cho người chồng, qua lời phán của Allah. قال تعالى: (وءاتوا النساء صدقاتهن بخلة فإن طبن لكم عن شىء منه نفسا فكلوه هبيئا مريئا) سورة النساء 4 « Và hãy tặng cho các người vợ tiền cưới bắt buộc (Mahar) của họ. Nhưng nếu họ vui lòng tặng lại một phần nào cho các người, thì hãy hoan hỉ hưởng nó một cách bổ ích. » S. 4 : 4. Allah đã tạo cho người đàn bà có một địa vị để cai quản trong gia đình, là người có trách nhiệm giáo dục và chăm sóc con cái, cũng như trông nom nhà cửa để có đủ tiện nghi trong mọi tình huống, qua lời của Rosul (saw): قال صلى الله عليه وسلم (المرأة راعية في بيت زوجها، ومسئولة عن رعيتها). « Người phụ nữ có trách nhiệm trong việc chăm sóc và giáo dục con cái và tạo sự thoải mái trong nhà. » Còn người chồng thì bắt buộc phải lo việc cung phụng từ vật chất lẫn tinh thần cho gia đình một cách chu toàn. 2- ما يريده أعداء الإسلام وأفراخهم اليوم من سلب المرأة كرامتها وانتزاع حقوقها: 3)- Những người chỉ trích Islam là đối xử bất công với phụ nữ? Thực ra, vấn đề này chỉ có những người bất tin hay những kẻ đạo đức giả đã mang phải cái bệnh trong tâm hồn của họ là khinh thường phụ nữ, nên họ không tôn trọng và có những hành vi xúc phạm đến địa vị của người phụ nữ… Chính những hành động của những người vô ý thức đó mới sinh ra sự hiểu lầm của người ngoài cho đó là những hành vi của những người muslim hay Islam. Nhưng trong thực tế, những kẻ bất tin đem những phụ nữ trưng bày như món hàng sau khi thưởng thức để thỏa mãn dục vọng của họ, và sau đó gián tiếp đưa đẩy những phụ nữ đó vào con đường lầm lạc “mua hoa bán phấn”, như Allah đã phán: قال تعالى: (ويريد الذين يتبعون الشهوات أن تميلوا ميلا عظيما) سورة النساء 27. “Và Allah muốn quay lại tha thứ cho các người nhưng những kẻ làm theo dục vọng muốn cho các người sa ngã dữ dội.” S.4 : 27. Cũng có những người muslim mang bệnh theo đuổi dục vọng, mong muốn cho người phụ nữ trở thành những món hàng để trao đổi như hàng hóa trình bày trước sự dục vọng của họ, để mọi người ngắm nhìn, lựa chọn như món vật bán ngoài chợ qua sắc đẹp mà Thượng Ðế đã ban cho họ, hay đưa người phụ nữ vào con đường lầm than đầy tội lỗi. Nên họ chấp nhận cho người phụ nữ được quyền tự do giao du, ra đường, tham gia chung đụng hay phục vụ người đàn ông trong quân đội hay công việc làm hằng ngày như chiêu đãi viên, tiếp đón khách du lịch trong văn phòng hay trình diện trong những nhà hát trước cả trăm cả ngàn khán thính giả… Ngoài đó ra, họ còn đưa những hình ảnh lõa thể của phụ nữ trong những tờ báo, tập san hay trong những đĩa phim để làm kinh doanh kiếm lợi tức... Vì lợi tức mà họ đã lợi dụng những người phụ nữ không tin tưởng trở thành “con cờ” cho họ. Từ đó, bản chất thực thụ của người phụ nữ không còn nữa và đã trở thành công cụ cho những tay “mua hoa bán phấn”. Họ hô hào là “nam nữ phải bình quyền” và thúc đẩy những người phụ nữ ra làm việc để tiếp xúc với những người đàn ông... Chính vì thế, vai trò của người phụ nữ từ đó không còn thời giờ để giữ trách nhiệm của một người mẹ để giáo dục con cái và vai trò của một người vợ lo lắng cho chồng, mà tất cả đã thay thế bằng những người giúp việc hay giao hết cho nhà trường. Người phụ nữ hôm nay không biết đến công việc trong nhà nên tình cảm giữa con cái với cha mẹ không còn đậm đà. Từ đó vấn đề giáo dục con cái đã trở thành một tệ đoan của xã hội và bao nhiêu điều tai hại khác đã xảy ra như chúng ta chứng kiến ngày hôm nay... Cho nên, người phụ nữ thời đại đã trở thành nô lệ của vật chất hay lệ thuộc vào chủ thuyết tân thời. 4)- إننا لا نمانع من عمل المرأة خارج بيتها إذا كانت بالضوابط الآتية.. 4)- Islam không cấm người đàn bà ra làm việc nhưng với điều kiện : a)- Công việc đó cần người đàn bà hay xã hội đó cần đến người đàn bà mà người đàn ông không thể làm được. b)- Công việc làm đó không gây sự xáo trộn trong việc làm chính ở trong nhà. c)- Công việc làm đó đặc biệt dành riêng cho đàn bà, như chăm sóc bệnh nhân đàn bà, hay dạy học chỉ cho phụ nữ và không chung đụng với đàn ông. d)- Không cấm phụ nữ trao dồi kiến thức về tôn giáo hay bất cứ kiến thức lành mạnh hữu ích khác về đời nhưng chỉ giữa phụ nữ với nhau. Ngay cả việc phụ nữ đến nghe diễn thuyết hay đến masjid để học, dĩ nhiên phụ nữ ngồi chung một chỗ và có khoảng cách với đàn ông... Vào thời xưa người phụ nữ Islam cũng được học hỏi, làm việc và tham gia những buổi giảng dạy ở trong masjid. (Đón xem phần thứ hai: "Giáo lý liên quan đến vấn đề Trang điểm của phụ nữ Islam") Do Mohammad HOSEN chuyển ngữ Ý kiến bạn đọc |