GIÁO LÝ LIÊN QUAN VỀ SỰ SOLAH (Phần 2 - Hết) 03.04.2008 02:30 - đã xem : 5553 سجود التلاوة : Sujuđ At Tilawah Theo đa số các vị Ulama đồng cho rằng sự Sujuđ nầy là điều bắt buộc nên làm, nhưng sau khi kiểm tra lại những hadith thì thật ra đây không phải là điều bắt buộc cho những nô lệ của Allah. Bởi vì, có lần vào ngày thứ sáu, ông Kholifah Amirrul Moamini Umar (R) làm Imam đọc khub’ah, khi ông đọc đến đoạn có làm dấu sujud trong sourate An Nahl, ông liền cúi xuống sujuđ. Nhưng đến thứ Sáu lần khác, ông cũng đọc lại ayat nầy nhưng ông không cúi xuống sujuđ ? Sau đó ông có nói : - Allah không bắt buộc chúng ta phải sujud ngoại trừ nếu chúng ta muốn. Có nghĩa là : Khi đọc những đoạn Qur’an nầy, nếu chúng ta muốn thì sujud để tỏ lòng cung kính Allah, nếu không thì cũng không bắt buộc (làm thì có phước, không làm cũng không có tội). Và ông Umar (R) cũng không ngoại lệ, ông và những vị Sohabah cũng đã thi hành với sự chứng kiến đông đảo của quần chúng mà không một ai phản đối hay có ý kiến gì, vì các vị sohabah là những người làm đúng thật và không bao giờ im lặng trước những gì không đúng. Những vị sohabah đã im lặng, nghĩa là đã chấp nhận hành động và lời tuyên bố của vị lãnh đạo tối cao Umar ibnu Al Khottob (R), nên sự sujuđ đó có nghĩa là không bắt buộc, dù người đọc đó trong lúc solah hoặc không phải solah. كيف سجود التلاوة : Cách thức sujuđ At Tilawah: Cách thức Sujuđ Tilawah giống như sujuđ trong khi solah, nó có bảy tư thế sujuđ bắt buộc và đọc câu kinh sau: (( سبحان ربي الأعلى )) (( سبحانك الله ربنا وبحمدك, اللهم اغفرلي )) ويدعو بدعاء المشهور : (( اللهم لك سجدت وبك آمنت وعليك توكلت . سجد وجهي لله الذي خلقه وصوره وشق سمعه وبصره, بحوله وقوته , اللهم اكتب لي بها اجرا , وارفع عني بها وزرا واجعلها لي عندك ذخرا وتقبلها مني كما تقبلتها من عندك داود )). « Subhana robbiyal a'la, subhana kalloh robbana wa bihamđika, Allohummagfir ly ». Sau đó đọc bài đu-a này mà phần đông mọi người đều biết đến: « Allohumma la ka sađjađtu wa bika a 'mantu wa alaika tawak kaltu, sađja wađhy lillơhil lazy kholaqohu wa sawarohu wa shaqo sam ahu wa basorohu bihawlihy wa quwatihu, Allohumma uktubly biha ađran warfa-u anny biha wisnan wađ-al ly inđa ka zakhran wa taqobbalaha miny kama taqobbaltaha min inđika Dawud ». (Vinh Quang nơi Allah Tối Cao, Sự Vinh Quang và Khen Ngợi nơi Ngài, ôi Allah Chủ Nhân của chúng tôi, ôi Allah xin Ngài tha thứ cho tôi). (Ôi Allah ! Ở Ngài Duy Nhứt mà tôi phủ phục, tin tưởng và phó thác, Xin phủ phục ở Ngài với gương mặt của tôi do Ngài tạo ra và biến hóa nó, cũng như Ngài đã mỡ rộng đôi tai và cặp mắt của tôi do sự biến hóa thay đổi cai quản của Ngài. Ôi Allah, xin Ngài ghi cho tôi phần thưởng nầy, cũng như được tăng thêm trong cán cân và bảo trì nó trong kho tàng của Ngài, xin Ngài hãy chấp nhận sự phủ phục của tôi cũng như Ngài đã chấp nhận sự phủ phục của Nabi Dawud). Nếu chỉ đọc kinh Qur’an (không phải solah) thì sau khi sujuđ với bài đu-a nầy xong thì ngồi dậy và không đọc lời takbir « Allohu-Akbar » cũng như không cho « salam ». Nhưng ngược lại khi sujuđ tilawah trong lúc solah thì đọc takbir lúc cúi xuống cũng như takbir khi ngồi dậy, bởi vì chiếu theo thể thức mà Rosul (saw) đã sujuđ trong khi solah thì có những lời takbir khi cúi xuống cũng như khi ngồi dậy mà nhiều hadith đã ghi lại. Qua hadith do ông Abu Hurairoh (R) thuật lại: Có lần Rosul (saw) soly Isa sourate 84 (Hiện tượng Xẻ làm hai) khi đến đoạn « Bởi vì khi nghe đọc Qur’an, họ không chịu phủ phục xuống lạy ? » thì Nabi (saw) đọc tabir (Allohu-Akbar) rồi cúi xuống sujuđ và đọc takbir khi đứng dậy để tiếp tục solah. Nghĩa là trong lúc solah mỗi lần chuyển động tác bắt buộc phải đọc takbir (Allohu-Akbar). Nếu đang đọc kinh Qur’an trong lúc solah đến những đoạn phải sujud tilawah thì phải đọc takbir để cúi xuống sujud và sau khi sujud phải đọc takbir để đứng dậy tiếp tục đọc kinh Qur’an cho hết đoạn mà mình muốn đọc. Sau đó đọc takbir để chuyển qua động tác khác… Trong lúc đọc kinh sau bài Fatihah, nếu có hai hoặc ba lần để sujud tilawah và đọc takbir hai hoặc ba lần thì cũng không sao, vì ở đây có lý do chánh đáng của nó. Có một số người chỉ đọc takbir khi cúi xuống sujuđ, nhưng khi đứng lên thì không có đọc lời takbir thì chúng tôi không thấy có bằng chứng. Những vị Ulama chỉ bất đồng ý kiến về sự takbir sau khi sujuđ ở ngoài phạm vi solah (đọc kinh Qur’an). Ngược lại, trong khi solah nếu có sujuđ thì phải đọc takbir khi cúi xuống sujud cũng như khi đứng dậy từ sujuđ, vì nó nằm trong thành phần của sự solah. Tóm lại, trong khi solah khi đọc kinh Qur’an đến nơi nào phải sujuđ tilawah thì phải đọc takbir khi cúi phủ phục và đọc takbir khi đứng dậy từ sujuđ đó. حكم تارك الصلاة : Giáo lý liên quan về sự bỏ solah. Có người đặt câu hỏi như sau: « Khi gia trưởng ra lệnh cho những người trong gia đình (thân nhân) bắt buộc phải solah, nhưng họ không làm theo. Vậy người gia trưởng đó phải đối xử thế nào với họ, có nên sống chung với họ (người không soly) hay đuổi họ ra khỏi nhà? » Trả lời : Theo giáo luật Islam, những người mang danh nghĩa là Muslim mà không chấp hành nền tảng thứ hai của Islam là không bao giờ soly, thì họ đã trở thành kafir (bất tín), murtat (bỏ đạo) và xem như họ tự động từ bỏ cộng đồng của người Islam. Nếu chiếu theo giáo luật thì không thể sống chung với họ, nhưng vì tình gia đình chúng ta nên kêu gọi và nhắc nhở họ thường xuyên để mong họ cải tâm chấp hành mệnh lệnh của Allah mà trở về với Islam, biết đâu qua sự nhắc nhở kêu gọi đó Allah sẽ cải tâm cho họ, Insha-Allah. Những bằng chứng từ kinh Qur’an, sunnah và những lời giải thích của các vị sohabah đều nói nếu một người Muslim không chịu solah là trở thành kafir (cầu xin Allah che chở từ sự việc này) mà Allah đã phán về những người đa thần (Musrikin) như sau : قال تعالى: ( فإن تابوا وأقاموا الصلواة وءاتوا الزكواة فإخوانكم في الدين ).التوبة 11. « Nhưng nếu chúng hối cải và năng dâng lể (solah) và đóng (zakat) thì chúng là anh em với các ngươi trong đạo.. » Sourate 9 :11 Hiểu qua ý nghĩa trên, nếu ai không thực hiện những điều trên thì họ không phải là anh em của chúng ta, bởi trong tôn giáo Islam không thể chấp nhận những người không tuân lệnh Allah là những anh em hay huynh đệ, vì họ đã tự ý thoát khỏi cộng đồng Islam. أما من السنة فقول النبي صلى الله عليه وسلم : (( بين الرجل وبين الكفر والشرك ترك الصلاة)) . أخرجه مسلم . Bằng chứng từ Sunnah qua lời của Rosul (saw) : « Sự khác biệt giữa người muslim với kafir và đa thần giáo là sự solah ». Do Muslim ghi lại. وقوله في حديث بريدة رضي الله عنه في السنن : (( العهد الذي بيننا وبينهم الصلاة فمن تركها فقد كفر )) . Qua hadith khác do ông Buroiđah (R) thuật lại : « Sự giao ước (với Allah) giữa chúng với những người khác là sự solah, những ai bỏ solah thì trở thành kafir ». Bằng chứng từ những lời nói của các vị sohabah : « Ông Amirrul Moaminine Umar ibnu Al Khottob (R) nói : - Không có hạnh phúc trong Islam đối với ai bỏ solah. » Hạnh phúc ở đây có nghĩa là : Người đó không còn thuộc thành phần của cộng đồng Muslim, họ bị coi như kẻ xa lạ không cùng chí hướng để chia xẻ những gì trong cuộc sống của người Muslim. Ông Abdulloh ibnu Shaqik nói : - Tất cả những vị Ashabah của Rosul (saw) đều lên án những người Muslim không có solah là thành phần không phải Islam (kafir). Xét về phương diện khác, không có lý do nào một người tin tưởng (imam) mà lại không chấp nhận sự solah (bỏ solah trên mọi hình thức), họ có biết được giá trị cao cả của sự solah mà Allah đã ban xuống như thế nào? Tại sao bỏ solah? Ðó là điều không thể chấp nhận được dù với lý luận như thế nào, và chúng tôi cũng không hiểu lý do nào hoặc họ lấy bằng chứng từ đâu mà họ cho rằng những người bỏ solah không trở thành kafir (ngoại đạo)? 1)- Có những người cho rằng bỏ solah không trở thành kafir, nhưng họ không đưa ra được bằng chứng để chứng minh điều đó. 2)- Hoặc họ giải thích ý nghĩa chữ « kuf » một cách sai lệch để có lý do mà không solah. 3)- Hoặc họ biện chứng tại vì một lý do bắt buộc nào đó nên họ không thể solah. 4)- Hoặc họ biện luận rằng những hadith nói về tội bỏ solah đó là những hadith do-if (yếu) nên không thể dựa vào đó được. Trong những hadith nói về tội bỏ solah một cách cố ý thì không có hadith nào ghi lại là người bỏ solah là người tin tưởng ‘moamin’, người bỏ solah sẽ được vào thiên đàng sau khi bị trừng phạt, hoặc đã giải thích chữ ‘kuf’ một cách quá nhẹ nhàn, nghĩa là ‘kuf niemah’… Nhưng nếu giải thích rằng những người bỏ solah là ‘kafir’ với ý nghĩa là phản bội, bỏ đạo thì chữ ‘kuf’ nầy trở thành người Muslim bỏ Islam đi theo đạo khác, và trường hợp nầy được giải thích như sau : Thứ nhứt : Nếu một người đã làm lễ ‘Nikah’ và sau đó không soly thì sự Nikah đó không có giá trị đối với Allah. Và nếu người chồng không chịu soly thì người vợ đó không thể lấy người không solah đó làm chồng được, qua lời phán của Allah về những người Al Muhajirine (ti nạn) trước kia. قال تعالى: ( فإن علمتموهن مؤمنات فلا ترجعوهن إلى الكفار لا هن حل لهم ولا هم يحلون لهن ) . الممتحنة 10. « ... và khi các người biết chắc họ là những người (nữ) tin tưởng thật sự, chớ trả họ về cho những kẻ ngoại đạo (tại Mecca). Họ không là những (người vợ) hợp pháp cho chúng và chúng cũng không là những (người chồng) hợp pháp cho họ… » Sourate 60 :10. Thứ nhì : Theo giáo luật, sau khi đã làm lễ Nikah xong mà người chồng không chịu solah, thì bắt buộc phải hủy bỏ cuộc hôn nhân (Nikah) đó, vì người đàn bà đó không thể sống chung với người đàn ông không solah (haram). Dựa theo ý nghĩa của ayat trên mà hầu hết những học giả về tafsir thiên kinh Qur’an đồng cho rằng, nếu sau khi làm lễ Nikah mà người chồng không chịu solah (trước hoặc sau khi động phòng) đều có quyền hủy bỏ cuộc hôn nhân đó, vì không thể hợp thức hóa cho người đàn ông không solah cưới người phụ nữ Muslimate làm vợ. Thứ ba : Trường hợp người đàn ông Muslim không có soly mà cắt cổ một con vật để đãi ăn, thì những người Muslim không thể ăn con vật do người đó cắt cổ (haram). Nhưng người Do Thái hoặc Thiên Chúa giáo cắt cổ một con vật thì chúng ta lại được phép ăn thịt con vật đó. Thứ tư: Một người Muslim bỏ solah thì không được bước vào Masjid Al Haram hoặc đến ranh giới haram của hai ngôi Masjid Al Haram (Mecca và Madinah), qua lời phán của Allah như sau: قال تعالى: ( يآيها الذين ءامنوا إنما المشركون نجس فلا يقربوا المسجد الحرام بعد عامهم هذا) التوبة : 28. « Hỡi những ai có niềm tin ! Chỉ những người thờ đa thần mới không được sạch. Bởi thế, sau năm (tế lễ) này của chúng, chớ để cho chúng đến gần Thánh Ðường Linh Thiêng (tại Mecca)… » Sourate 9 :28 Thứ năm: Những người Muslim bỏ solah không được quyền hưởng phần chia gia tài của thân nhân khi lâm chung. Nếu người bỏ solah đó chết có con trai (soly) thì người con đó không được quyền đứng ra soly janazah cho cha, mà những đứa cháu hoặc những người Muslim khác được quyền đứng ra thay thế để solah janazah cho ông ta. Nếu người bỏ solah chết mà có gia tài để lại thì những người con (có solah) không được đụng đến gia tài đó, mà hãy giao lại cho những người thân cận trong gia quyến... Qua hadith do ông Uthamah (R) thuật lại lời của Rosul (saw) : قوله صلى الله عليه وسلم : (( لا يرث المسلم الكافر و لا الكافر المسلم )). متفق عليه . « Người kafir không thể hưởng được gia tài của người muslim, và người muslim cũng không hưởng được gia tài của người kafir ». Do Al Bukhory và Muslim ghi lại. ولقوله صلى الله عليه وسلم : (( الحقوا الفرئض بأهلها فما بقي فلأولى رجل ذكر )). متفق عليه . Qua hadith khác Rosul (saw) nói : « Người đáng được hưởng gia tài nhứt là người thân nhứt trong gia đình, sau đó người đàn ông thân cận trong gia quyến... » Muttafikun Alaihi. Thứ saú: Cũng theo giáo luật, khi những người Muslim bỏ solah đã chết, thì chúng ta không được quyền tắm, làm kafan, solah janazah và không được chôn trong nghĩa trang của người Muslim. Trường hợp nầy hãy đem xác của người đó ra ngoài sa mạc hoặc một cánh đồng, chôn họ với bộ y phục mà người đó mặc khi chết (không làm kafan giống những người muslim bình thường khác). Và cũng không được thông báo hay kêu gọi những anh em Muslim khác đến soly janazah cho họ. Thứ bảy : Vào Ngày Phục Sinh, người bỏ solah sẽ được Allah cho sống dậy trong hàng ngũ của Firoun, Haman, Qorune, Ubai ibnu Kholaf và cộng đồng của người kafir (Cầu xin với Allah xa lánh và che chở chúng ta từ sự thể tai hại đó). Những người đó sẽ không bao giờ được vào Thiên Ðàng, và thân nhân gia đình bạn bè không được phép cầu xin với Allah tha thứ và ban hồng phúc cho người đó, bởi vì họ là người phản đạo không đáng để được sự cầu xin đó, qua lời phán của Allah : قال تعالى: ( ما كان للنبي والذين ءامنوا أن يستغفروا للمشركين ولو كانوا أولى قربى من بعد ما تبين لهم أنهم أصحاب الجحنم ) التوبة : 113. « Nabi và những người có đức tin không được phép xin Allah tha thứ cho những người Musrikin (thờ nhiều thần linh cùng với Allah) dù đó là bà con ruột thịt của họ đi nữa sau khi họ đã nhận thấy họ là những người Bạn của Hỏa Ngục... » Sourate 9 :113. Hỡi những anh chị em thân mến ! Hãy cảnh giác đừng bỏ bê solah, vì solah là một phần tử rất quan trọng trong tôn giáo Islam. Solah là nền tảng bắt buộc thứ hai mà Rosul (saw) lên tận bảy tầng trời để nhận lãnh lời phán của Allah. Solah là chứng nhận một phần của niềm tin vào Đấng Tạo hóa. Nếu chúng ta biết được sự giá trị của solah là chúng ta đã đi được một chặn đường tiến đến gần Ngài (Allah), và solah là cán cân để Ngày Sau phân xử… Cầu xin Allah ban sự bình yên an lành cho Rosul (saw) cùng gia quyến, những bạn hữu của Người và những ai đi theo con đường của Người cho đến Ngày Cuối Cùng, amine. MOHAMAD HOSEN chuyển ngữ Bài của cố Shiekh Mohamad Soleh Al Uthaimeen. Ý kiến bạn đọc |